Chữa đau đầu, huyết áp cao bằng lá chè, hoa cúc, hoa hồng
Lấy 3 g lá chè, 10 g hoa cúc trắng, 7 đóa hoa hồng, cho vào nước nấu sôi chờ nguội rồi uống.
Theo tiến sĩ Võ Văn Chi, chè có tên khoa học là Camellia sinensis (L.) Kuntze, thuộc họ chè Theaceae. Đây là loại cây nhỡ thường xanh, cao từ một đến 6 m. Lá mọc so le, hình trái xoan, dài từ 4 đến 10 cm, rộng từ 2 đến 2,5 cm, nhọn gốc, nhọn tù có mũi ở chóp. Phiến lá lúc non có lông mịn, khi già thì dày, bóng, mép khía răng cưa rất đều. Hoa to, có từ 5 đến 6 cánh hoa màu trắng, mọc riêng lẻ ở nách lá, có mùi thơm, nhiều nhị. Quả nang thường có 3 van, mỗi ô chứa một hạt gần tròn, đôi khi nhăn nheo.
Bình thường cây chè có thể cao từ 7 đến 10 m, trồng để cắt đốn thường xuyên nên chỉ còn chừng một m. Cây ra hoa vào tháng 9 đến 10, có quả tháng 11 đến tháng 3 năm sau, ưa khí hậu ẩm, đất chua và cần được che bóng ở một mức độ nhất định để đảm bảo hương thơm. Người ta thường bẻ cả cành và lá nấu nước uống gọi là chè xanh. Ngoài ra còn hái búp và lá non sao, vò rồi sao để làm chè hương pha nước uống gọi là trà. Còn có cách để cho lên men mới phơi sấy khô làm chè mạn hay chế thành chè đen.
Chè được trồng rộng rãi ở Việt Nam từ Bắc tới Nam. Ngoài ra còn có ở Trung Quốc và các nước nhiệt đới, á nhiệt đới. Lá thu hái quanh năm, dùng tươi hay phơi khô. Chè có vị đắng, chát, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải khát, tiêu cơm, lợi tiểu, định thần, khỏi chóng mặt xây xẩm, bớt mụn nhọt và cầm tả lỵ. Thường dùng trong các trường hợp tâm thần mệt mỏi, ngủ nhiều, đau đầu, mắt mờ, sốt khát nước, tiểu tiện không lợi, ngộ độc rượu.
Phân tích thành phần dược lý cho thấy trong lá chè có tinh dầu, các dẫn xuất polyphenol (flavonoid, catechol, tanin), các alcaloid (cafein, theophyllin, theobromin, xanhthin). Ngoài ra còn có vitamin C, B1, B2 và các men.
Các nghiên cứu chứng minh chè giúp kích thích não, tim, hô hấp, lợi tiểu, giải độc, dễ tiêu hóa. Các flavonol và polyphenol làm cho chè có tính chất của vitamin P hỗ trợ mạch máu, làm vững thành mạch. Ngoài ra còn giúp tăng sức đề kháng, tăng tiêu hao năng lượng, chống đái tháo đường, ức chế sự tăng đường huyết, chống oxy hóa nhờ sự có mặt của các chất catechin và flavonol. Tanin trong lá chè còn làm giảm sự hấp thu sắt và canxi, giúp tránh táo bón và chữa tiêu chảy.
Tiến sĩ Võ Văn Chi giới thiệu 2 bài thuốc hay từ lá chè như sau:
Chữa huyết áp cao, xây xẩm, đau đầu
Lá chè 3 g, hoa cúc trắng 10g, hoa hồng 7 đóa. Tất cả đem bỏ vào ấm nấu sôi, chờ nguội thì uống.
Phù thũng
Chè tươi 300 g nấu nước uống, mỗi ngày từ 2 đến 3 lít. Uống liên tục trong 3 đến 4 ngày.